Thứ Ba, 31 tháng 7, 2012

Kiểm soát chặt hàng hóa tạm nhập tái xuất

Tổng cục Hải quan vừa có công văn số 3842/TCHQ-ĐTCBL gửi Ban chỉ đạo 127 các tỉnh: Điện Biên, Lào Cai, Cao Bằng, Hà Giang, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Hải Phòng, Hà Tĩnh và Quảng Trị về việc tăng cường quản lý đối với hàng hóa tạm nhập tái xuất.
>>thông tin habubank nợ nần là sai sự thật 

Theo Tổng cục Hải quan, thời gian qua, hàng hóa tạm nhập tái xuất có dấu hiệu bị tồn đọng tại các cảng biển, hàng hóa và phương tiện bị dồn ứ, ách tắc tại các khu vực biên giới. Các doanh nghiệp không chấp hành quy định về hàng hóa tạm nhập tái xuất như: Sau khi làm thủ tục để tái xuất khỏi các khu vực kiểm soát hải quan ở Hải Phòng, Quảng Trị đã đi sai tuyến đường, xuất hàng sai địa điểm tái xuất ở cửa khẩu. 
Bên cạnh đó, một số doanh nghiệp còn có hành vi phá dỡ container, tẩu tán hàng hóa, đưa vào nội địa tiêu thụ. Đặc biệt là thực hiện hành vi tẩu tán hàng hóa ảnh hưởng đến môi trường, sức khỏe cộng đồng gây bức xúc trong dư luận.
Do đó, để kiểm soát tốt hơn đối với hàng hóa tạm nhập tái xuất, Tổng cục Hải quan đề nghị Ban chỉ đạo các tỉnh, thành phố chỉ đạo các lực lượng chức năng trên địa bàn kiểm soát chặt chẽ, thực hiện nghiêm các chính sách, quy định của pháp luật đối với loại hình hàng hóa tạm nhập tái xuất. 
Tổ chức tuyên truyền hướng dẫn thủ tục để các doanh nghiệp thực hiện đúng quy định. Yêu cầu các doanh nghiệp dừng, đỗ xe chở hàng đúng nơi quy định tại các khu vực kiểm soát hải quan, không làm ảnh hưởng đến an ninh, trật tự tại các khu vực cửa khẩu. 
Đồng thời, tổ chức lực lượng tiến hành tuần tra, kiểm soát các khu vực, tuyến đường trọng điểm, không để xảy ra các tình trạng doanh nghiệp phá dỡ container, tẩu tán hàng hóa, đưa vào nội địa tiêu thụ; phát hiện, xử lý nghiêm các hành vi sai phạm.

MB ra mắt sản phẩm “Tiết kiệm Quân nhân”

Ngân hàng Quân đội (MB) chính thức giới thiệu sản phẩm “Tiết kiệm Quân nhân” dành cho đối tượng khách hàng là các quân nhân, nhân viên đang công tác tại các đơn vị quân đội hoặc tại các doanh nghiệp trực thuộc sự quản lý của Bộ Quốc phòng.
>>thông tin habubank nợ nần là sai sự thật 

Đây là sản phẩm đầu tiên trên thị trường ngân hàng Việt Nam hiện nay được thiết kế dành riêng cho nhóm khách hàng Quân nhân.
Khách hàng quân nhân có thể nộp tiền vào tài khoản “Tiết kiệm Quân nhân” bất kỳ lúc nào khi phát sinh nhu cầu và được hưởng mức lãi suất ưu đãi, với số tiền nộp cho mỗi lần chỉ từ 1.000.000 đồng trở lên. Sản phẩm giúp khách hàng hướng tới mục tiêu tích lũy dài hạn.
Điểm nổi bật của sản phẩm này là linh hoạt trong thời điểm nộp tiền. Khách hàng có thể gửi tiền vào tài khoản “Tiết kiệm Quân nhân” bất kỳ thời điểm nào khi phát sinh nhu cầu. Hình thức nộp tiền rất đơn giản, nhanh và linh hoạt nhờ sự kết hợp các hình thức giao dịch ngân hàng truyền thống và hiện đại, như nộp/chuyển tiền vào tài khoản “Tiết kiệm Quân nhân” trực tiếp tại Quầy giao dịch hoặc thông qua ATM, dịch vụ eMB và đặc biệt, với sự hợp tác giữa MB và Viettel, các giao dịch thông qua điện thoại di động - BankPlus của MB, sẽ mang lại nhiều thuận lợi cho khách hàng.
“Tiết kiệm Quân nhân” là một trong những sản phẩm được MB thiết kế theo định hướng đa dạng hóa sản phẩm nhằm đáp ứng  nhu cầu chuyên biệt các phân khúc khách hàng khác nhau. Điều này đã được MB áp dụng rất thành công trong nhiều năm qua và trở thành thế mạnh riêng của MB trong việc chăm sóc khách hàng cũng như thực hiện cam kết mang lại nhiều tiện ích nhất cho các  khách hàng của mình.

Phấn đấu tăng trưởng xuất khẩu hàng hóa 11% - 12%/năm

Thủ tướng Chính phủ mới ban hành Chương trình hành động thực hiện Chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa thời kỳ 2011 - 2020, định hướng đến năm 2030 với mục tiêu tăng trưởng nhập khẩu hàng hóa bình quân tăng 10% - 11%/năm.
>>thông tin habubank nợ nần là sai sự thật 

Chương trình nêu rõ, giảm dần thâm hụt thương mại, kiểm soát nhập siêu khoảng 10% kim ngạch xuất khẩu vào năm 2015 và tiến tới cân bằng cán cân thương mại vào năm 2020. Phấn đấu cán cân thương mại thặng dư thời kỳ 2021 - 2030.
Chương trình đề ra nhiệm vụ chủ yếu là phát triển sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Trong đó có nhiệm vụ xác định cụ thể các mặt hàng xuất khẩu có tiềm năng. Xây dựng và ban hành cơ chế, chính sách nhằm phát triển sản xuất các mặt hàng xuất khẩu có tiềm năng, có lợi thế cạnh tranh cấp quốc gia, có tốc độ tăng trưởng và giá trị gia tăng cao thuộc các nhóm hàng vật liệu xây dựng, sản phẩm hóa dầu, sản phẩm cao su, sản phẩm chất dẻo, điện tử, điện thoại di động.
Bên cạnh đó, rà soát và bổ sung các chính sách ưu đãi để khuyến khích, thu hút đầu tư vào sản xuất các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ưu tiên phát triển thuộc các ngành cơ khí chế tạo, điện tử - tin học, sản xuất lắp ráp ô tô, dệt may, da giầy và công nghệ cao.
Đồng thời bổ sung mới các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ cần ưu tiên phát triển trong thời gian tới phù hợp với tình hình kinh tế trong nước và quốc tế, gắn với phát triển xuất khẩu.
Về nông nghiệp, rà soát, bổ sung và hoàn chỉnh các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật đối với các mặt hàng nông, lâm, thủy sản, nhất là mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực như gạo, cà phê, cao su, thủy sản.
Trên cơ sở đó, xây dựng lộ trình bắt buộc áp dụng tiêu chuẩn, quy trình kỹ thuật đối với các mặt hàng nông, lâm, thủy sản xuất khẩu và tăng cường kiểm tra, kiểm soát để nâng cao chất lượng, hiệu quả xuất khẩu, bảo vệ uy tín, thương hiệu hàng hóa Việt Nam.
Chương trình cũng đặt ra nhiệm vụ cần tăng cường sử dụng hàng hóa trong nước đã sản xuất được để góp phần kiềm chế nhập siêu; đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại trong nước nhằm tạo cơ hội kết nối giữa các doanh nghiệp sản xuất máy móc, thiết bị, vật tư, nguyên phụ liệu với các doanh nghiệp sử dụng các loại máy móc, thiết bị và vật tư này.
Bên cạnh đó, xây dựng cơ chế khuyến khích sử dụng vật tư, hàng hóa sản xuất trong nước trong đấu thầu các dự án sử dụng vốn ngân sách nhà nước.
Các Hiệp hội ngành hàng cần đẩy mạnh công tác đánh giá, dự báo thị trường, xu hướng giá cả, thực hiện chế độ cung cấp thông tin định kỳ liên quan đến thị trường và chính sách của các nước bạn cho các hội viên để nâng cao tính chủ động, phòng ngừa rủi ro khi thị trường biến động.
Các doanh nghiệp phối hợp chặt chẽ với cơ quan quản lý nhà nước, phản ánh kịp thời những vấn đề khó khăn, vướng mắc để có biện pháp chủ động đối phó, nhất là để góp phần thúc đẩy xuất khẩu, nâng cao hiệu quả xuất khẩu giảm dần nhập siêu.

Thứ Hai, 30 tháng 7, 2012

Nhìn lại chính sách tài khóa nửa chặng đường 2012

Thực hiện chính sách tài khóa chặt chẽ, hiệu quả là một trong những giải pháp đuợc đề ra trong Nghị quyết 01/NQ – CP. Kết quả thực hiện trong nửa năm qua ra sao và đặt ra những vấn đề gì?
 >>thông tin habubank nợ nần là sai sự thật
 
Về thu ngân sách, biểu hiện truớc hết là tổng thu so với GDP trong 6 tháng đầu năm đặt 27,6%. Đó là một tỷ lệ cao so với định huớng (25%), một mặt do công tác hành thu đã bám sát dự toán đuợc duyệt, bám sát yêu cầu chi ngân sách; mặt khác có một phần do quy mô GDP tính theo giá thực tế trong 6 tháng đầu năm nay không tăng cao như cùng kỳ năm truớc cũng như khi lập dự toán của năm nay. GDP tính theo giá thực tế tăng thấp, do hai yếu tố.
Yếu tố thứ nhất, do tốc độ tăng GDP theo giá so sánh 6 tháng năm nay tăng thấp hơn cùng kỳ hai năm truớc (của năm 2012 tăng 4,38%, trong khi của năm 2011 tăng 5,63%, của năm 2010 tăng 6,18% ).

Yếu tố thứ hai, do giá thực tế 6 tháng năm nay tăng thấp hơn (giá tiêu dùng bình quân 6 tháng so với cùng kỳ năm truớc tăng 12,2% so với 16,03% ; giá bán sảm phẩm của người sảm xuất hàng nông, lâm nghiệp – thuỷ sản tăng 14,03% so với 27,57%; giá bán sảm phẩm của người sảm xuất công nghiệp tăng 13,41% so với 16,71%; giá xuất khẩu tăng 0,48% so với 13,6%), các thông tin trên đặt ra vấn đề là cần phải làm cho “chiếc bánh” GDP to ra hơn nữa thì tỷ lệ phân chia giữa doanh nghiệp, nguời lao động và Nhà nuớc về giá trị tuyệt đối sẽ nhiều hơn, mặc dù tỷ lệ thu ngân sách/GDP vẫn đảm bảo theo đinh hướng.

Do vậy tháo gỡ khó khăn cho sảm xuất kinh doanh, hỗ trợ cho thị truờng cần phải được thực hiện với liều luợng cao hơn (tập trung vào giảm hoãn thuế VAT để giảm giá, giảm tồn kho, giảm nợ xấu, hạ lãi suất vay, giảm lãi suất vay cũ), khẩn cấp hơn, để vừa tăng trưởng kinh tế, vừa tăng hiệu quả, trên cơ sở đó tăng thu ngân sách.
Một biểu hiện khác là công tác quản lý thu ngân sách nhà nước có chuyển biến tích cực hơn. Việc chống thất thu, thu hồi số tiền nợ trong thuế, nhất là khoản thu liên quan đến đất đai, tài nguyên, hàng hoá nhập khẩu, chuyển giá được tăng cường một bước.
Công tác tuyên truyền, hỗ trợ, tư vấn pháp luật về thuế cho nguời dân được đẩy mạnh và đa dạng hoá về hình thức. Công tác kiểm tra, kiếm soát việc kê khai nộp thuế đuợc tăng cường. Công tác kiểm tra, thanh tra thuế được đẩy mạnh. Đây là một trong những “dư địa” cần được sử dụng và cũng lý giải một trong những yếu tố quan trọng để thu ngân sách trong hàng chục năm qua đều vượt xa so với dự đoán, tăng khá cao so với năm trước và tỷ lệ tổng thu ngân sách so với GDP đều ở mức cao. Cụ thể :
Năm 2006 tăng 22,4% và đạt 28,7% cao hơn tỷ lệ 27,2% của năm 2005;
Năm 2007 tăng 13% và đạt 27,6 %;
Năm 2008 tăng 31,9% và đạt 28,1%;
Năm 2009 tăng 6,1% và đạt 26,7%;
Năm 2010 tăng 26,4% và đạt 28,2%;
Năm 2011 ước tăng 20,6% và ước đạt 26,6%;
Sáu tháng 2012 ước giảm 1,7% và ước đạt 27,6%;
Như vậy, trong điều kiện thu ngân sách của năm nay gặp khó khăn hơn các năm trước, nên vấn đề chống thất thu càng đặt ra một cách quyết liệt hơn, để bù cho việc giảm thu ngân sách do tăng trưởng kinh tế bị suy giảm, do một số khoản thu lớn từ xuất nhập khẩu, từ đất đai bị giảm sút ...
Tuy nhiên, thất thu từ các nguồn thu về đất đai, về khai thác tài nguyên khoáng sản, từ khu vực ngoài nhà nước, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, do gian lận thương mại, chuyển giá, trốn lậu thuế còn khá phổ biến. Nợ đọng thuế còn lớn và tăng mạnh (tính đến cuối tháng 4 đã lên đến trên 41 nghìn tỷ đồng, tăng trên 11 nghìn tỷ đồng ). Nói cách khác, có 3 vấn đề đặt ra cho vấn đề thu ngân sách hiện nay, đó là tăng trưởng kinh tế (trước hết là ngăn chặn nguy cơ suy giảm tăng trưởng); hiệu quả của đầu tư, sản xuất kinh doanh để tăng giá trị gia tăng, tăng GDP; chống thất thu, nợ đọng.
Chi bám sát thu
Về chi ngân sách, trong 6 tháng đầu năm, tỷ lệ so với dự toán cả năm của chi ngân sách thấp hơn của thu ngân sách (45,8% so với 46,7%). Điều đó chứng tỏ việc chi ngân sách đã bám sát tiến độ thực hiện thu ngân sách, bám sát dự toán đã được duyệt và bám sát nhu cầu chi. Tỷ lệ thực hiện so với dự toán của chi ngân sách năm nay cũng thuộc loại thấp so với nhiều năm trước. Điều đó chứng tỏ việc phối hợp chính sách tài khoá với chính sách tiền tệ để thực hiện mục tiêu ưu tiên kiềm chế lạm phát.
Đến khi sản xuất kinh doanh gặp khó khăn thì Nghị quyết 13/NG – CP đã đưa ra nhiều giải pháp để hỗ trợ, thể hiện tính chủ động trong điều kiện thu ngân sách đạt thấp so với dự toán năm, giảm so với cùng kỳ năm trước. Một kết quả tích cực là tỷ lệ so với dự toán của khoản chi trả nợ, viện trợ đạt cao hơn tỷ lệ của tổng chi (50,7% so với 45,8%) và tăng so với cùng kỳ năm trước (8,1%). Đây là một cố gắng để bảo đảm trả nợ các khoản vay nước ngoài đến hạn, không để xảy ra tình trạng nợ quá hạn.
Việc quản lý, giám sát chặt chẽ và cơ cấu lại nợ công, nợ Chính phủ, nợ quốc gia, bảo đảm nợ trong giới hạn an toàn, giảm thiểu nghĩa vụ nợ, được tăng cường một bước. Một kết quả tích cực khác là đã bảo đảm kinh phí để thực hiện việc tăng lương tối thiếu, thực hiện chính sách xã hội, thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình quốc gia.
Để kiềm chế lạm phát, tỷ lệ chi đầu tư phát triển so với dự toán năm đạt thấp hơn tỷ lệ của tổng chi (45,2% so với 45,8%) và tốc độ tăng so với cùng kỳ năm trước cũng thấp hơn (0,8% so với 12%). Gần đây, khi tăng trưởng kinh tế suy giảm, sản xuất kinh doanh gặp khó khăn, thì Chính phủ đã cho tạm ứng vốn ngân sách nhà nước, trái phiếu Chính phủ của năm sau cho những công trình, dự án phòng chống, khắc phục hậu quả của thiên tai, dịch bệnh, quốc phòng, an ninh cấp bách và những công trình dự án có thể hoàn thành trong năm 2012.
Không thể lơ là chuyện “tay hòm chìa khóa”
Tuy nhiên, hiện có một số vấn đề đặt ra trong chi ngân sách. So với cùng kỳ năm trước, trong khi tổng thu giảm 1,7%, thì tổng chi lại tăng 12%. Tiến độ này làm cho bội chi ngân sách cả năm 2012 có thể không cao hơn so với dự toán (do tỷ lệ so với dự toán của tổng chi thấp hơn của tổng thu), nhưng sẽ tăng cao so với năm trước.
Mục tiêu bội chi ngân sách/GDP của năm nay là dưới 4,8%, nhưng nếu quy mô bội chi tăng cao, trong khi GDP lại tăng thấp hơn mục tiêu, thì khả năng bội chi/GDP thực tế sẽ cao hơn mục tiêu. Đây là cảnh báo đáng chú ý. Trong chi ngân sách, tình trạng lãng phí, thất thoát và kém hiệu quả vẫn còn xảy ra một cách phổ biến, tinh vi.
Để thực hiện mục tiêu kiềm chế bội chi/GDP ở dưới mức 4,8%, để giải quyết xử lý những vấn đề đặt ra về ngân sách, cần phải có những giải pháp tác động đến các bộ phận cấu thành của các công thức bội chi/GDP; bội chi = tổng thu – tổng chi....
Trước hết là chiếc bánh GDP phải to ra, bởi thu ngân sách là một phần của GDP. Muốn chiếc bánh GDP to ra thì phải giải quyết hai điểm nghẽn lớn nhất là nợ xấu và tồn kho, để bảo đảm tính thanh khoản cho toàn bộ nền kinh tế. Nền kinh tế nếu tính thanh khoản thấp sẽ sinh ra trì trệ, mà khắc phục sự trì trệ khó hơn, tốn kém kinh phí, tốn kém thời gian hơn.
Cùng với việc làm cho chiếc bánh GDP to ra, phải tăng hiệu quả của nền kinh tế trên cơ sở năng cao hiệu quả đầu tư, nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí, bao gồm chi phí nguyên nhiên vật liệu, điện , nước, điện thoại, văn phòng phẩm, xăng dầu, chi phí lễ hội, khánh tiết, hội nghị, hội thảo, đi công tác trong và ngoài nước... Trong các chi phí hiện nay, có hai khoản đang chiếm tỷ trọng lớn và vượt quá so với các nước, đó là lãi trả tiền vay ngân hàng và chi phí thuê văn phòng, nhà xưởng, cửa hàng...
Công tác hành thu một mặt phải thực hiện các biện pháp cắt giảm, hoãn theo Nghị quyết 13/NQ – CP; mặt khác phải thực hiện quyết liệt, phối hợp đồng bộ hơn, để chống thất thoát, nợ đọng thuế. Đây là dư địa để tăng thu trong điều kiện hiện nay.
Chấp hành nghiêm kỷ luật ngân sách, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm. Đổi mới cơ chế hoạt động của đơn vị sự nghiệp công lập, đẩy mạnh xã hội hoá một số loại hình dịch vụ sự nghiệp.


Theo Minh Ngọc
chinhphu.vn

Gửi tiết kiệm đang là kênh đầu tư ‘vua’?

Quyết định gửi ngân hàng với lãi suất chỉ 9%/năm khiến nhiều người không mặn mà, nhưng trong bối cảnh các kênh đầu tư khác đều trực chờ rủi ro thì đây lại là lựa chọn tối ưu.
>>thông tin habubank nợ nần là sai sự thật
 
Dù lãi suất huy động đã giảm liên tục từ mức 14% hồi đầu năm xuống còn 9%/năm ở thời điểm hiện tại và có khả năng sẽ xuống tiếp 8% trong thời gian tới, nhưng đây dường như vẫn là kênh đầu tư an toàn và hiệu quả nhất trong bối cảnh nền kinh tế khó khăn.
Chị Nguyễn Thị Thảo ở Đại La (Hà Nội) đang có sổ tiết kiệm gần 1 tỷ đồng gửi tại 2 ngân hàng trên phố Bạch Mai. Chị cho biết, đã mấy lần lãi suất giảm và hiện chỉ bằng một nửa so với cuối năm ngoái nhưng vẫn không có ý định rút tiền khỏi ngân hàng.
Chị tâm sự, khoản tiền này là của gia đình chị tích cóp mấy năm nay từ hoạt động kinh doanh nhỏ lẻ (bán giày dép). Một số người quen biết có tiền đến hỏi vay với lãi suất lên đến 25%/năm, nhưng chị không dám nhận lời vì sợ vỡ nợ.
Chồng chị cũng tham gia thị trường chứng khoán nhưng thua lỗ rất nhiều và vốn ban đầu gần như không còn là bao. Khi thị trường đi lên mạnh hồi tháng 4, anh nhà muốn rút tiền ra để đổ vào cổ phiếu hòng gỡ gạc, nhưng chị đã kịch liệt phản đối.
Hồi tháng 5, khi giá vàng xuống vùng 42 triệu đồng/lượng, trong khi lại có một số dự báo cho rằng vàng sẽ lên tới 50 triệu đồng/lượng vào cuối năm, khiến chị cũng nghĩ đến việc đầu tư vàng, nhưng suy đi tính lại, chị quyết định giữ tiền mặt.
Tiếp đó, chị lai có ý định rút vốn và vay mượn thêm ngân hàng để mua nhà. Tuy nhiên, do lãi vay vẫn ở mức quá cao, lại có nhiều dự báo thị trường nhà đất chưa thể phục hồi trong năm nay nên chị thêm một lần lưỡng lự. Cuối cùng quyết định không mua nhà.
Cho đến bây giờ, khi thị trường chứng khoán đã quay đầu sụt giảm mạnh, giá nhà đất liên tục đi xuống còn thị trường vàng vẫn đóng băng, chị mới thấy thở phào nhẹ nhõm vì đã quyết định đúng.
Theo chị Thảo, khi lãi suất vẫn được ưu tiên ở mức 17% hồi cuối năm ngoái, tiền lãi hàng tháng gia đình chị tiêu không hết. Đến giờ, dù vẫn được hưởng chút ưu tiên lãi suất ở ngân hàng, nhưng mỗi tháng tiền lãi chỉ còn chưa đến 10 triệu đồng. Tuy nhiên, chị vẫn không có ý định sẽ rút tiền ra đầu tư khoản khác, ít nhất là 3 tháng tới.
Anh Hùng, nhân viên của ngân hàng VIB ở Thanh Xuân, HN cho biết, ngày càng có nhiều người có tâm lý gửi tiền cho ngân hàng lấy lãi. Nếu như hồi tháng 6, sau tin lãi suất đột ngột giảm từ 11% về 9% khiến một số người có tâm lý hụt hẫng vội rút tiền ra, thì giờ đây, mức lãi suất 9% vẫn được đánh giá là hấp dẫn hơn các kênh đầu tư khác, và họ lại tìm đến ngân hàng để làm sổ tiết kiệm.
Không chỉ người dân mà nhiều doanh nghiệp giờ đây cũng dành ra một khoản không nhỏ để gửi ngân hàng hưởng lãi hàng tháng
Theo Bà Nguyễn Thị Tố Nga, giám đốc một công ty sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ở Chương Mỹ (Hà Nội), do kinh tế khó khăn chung nên nhiều doanh nghiệp đã sử dụng biện pháp an toàn là gửi ngân hàng.

"Gửi ngân hàng chỉ được trên dưới 10%/năm nhưng hiện tại chắc chắn hơn so với kinh doanh. Nếu sản xuất và tiêu thụ thuận lợi thì không sao,  trường hợp hàng tồn không giải phóng được, thì tiền còn không thu được để trả phí nguyên liệu và thanh toán lương cho lao động, chứ chưa nói đến chuyện lỗ lãi", bà nói.
Riêng ở công ty của bà Nga, các hợp đồng xuất khẩu sang thị trường Đài Loan và Nhật Bản năm nay được biết ít hơn hẳn mọi năm, trong khi ông ty vẫn phải lo một khoản tiền cố định để thưởng lễ tết cho nhân viên. Tính trước những rủi ro, Ban giám đốc đã quyết định trích ra tối thiểu 8% doanh thu hàng tháng để gửi tiết kiệm, cuối năm có tiền thanh toán cho người lao động.
Quả thực, trong bối cảnh các kênh đầu tư đều cho thấy những rủi ro trực chờ, hoạt động sản xuất kinh doanh còn khó khăn như hiện nay thì có tiền nhàn rỗi gửi ngân hàng vẫn là lựa chọn tối ưu. TS. Võ Trí Thành - Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế trung ương (CIEM) mới đây nhận định, tiền mặt (VNĐ và USD) hiện đang có tính thanh khoản tốt nhất, tiếp theo mới đến vàng, cổ phiếu, trái phiếu và bất động sản.
Theo báo cáo của Cục Thống kê Tp. HCM, trong tháng 7, tổng vốn huy động trên địa bàn thành phố ước đạt 963,8 ngàn tỷ đồng, tăng 1,5% so tháng trước, tăng 13,5% so cùng kỳ. Vốn huy động bằng ngoại tệ chiếm 21,6%, tăng 5,1% so cùng kỳ. Vốn huy động VNĐ chiếm 78,4% tổng vốn huy động, tăng 16% so cùng kỳ, trong đó tiền gửi tiết kiệm tăng 20,4%, chiếm 40,5%.
Còn báo cáo từ Cục Thống kê Hà Nội thì cho biết, tổng nguồn vốn huy động của các tổ chức tín dụng trên địa bàn tháng 7/2012 ước đạt 843.912 tỷ đồng, tăng 2,49% so tháng 6 và tăng 2,69% so tháng 12/2011. Trong đó, tiền gửi tiết kiệm tăng lần lượt 1,55% và tăng 12,29%.



Thành Hưng
Theo TTVN

Thứ Tư, 25 tháng 7, 2012

Nợ xấu gây nghẽn tín dụng

Cuối tháng 2/2012, nhiều ngân hàng thương mại háo hức đón chờ hạn mức tín dụng được cấp bao nhiêu thì nay lại hờ hững với việc NHNN cho phép vượt chỉ tiêu này bấy nhiêu. 

>>thông tin habubank nợ nần là sai sự thật
mới chỉ tăng trưởng tín dụng 3,5%, trong khi hạn mức tăng trưởng trong năm 2012 mà NHNN cấp trước đó là 15%. “Chúng tôi đang lo từ đây đến hết năm 2012, chỉ còn hơn 5 tháng nữa, không biết có tăng tín dụng lên được 10% hay không, nên cũng không cần thêm hạn mức làm gì”, ông Tuân chia sẻ. 

Ông Nguyễn Thanh Toại, Phó Tổng giám đốc ACB, cũng cho biết: “Chúng tôi không xin cấp thêm vì mức hiện tại đã khó “xài” hết rồi. Hiện nay không cho vay được, chúng tôi không biết giải vốn vào đâu”. 

Theo phân tích khách hàng của Vietcombank, phần khách hàng có xếp hạng kém đang tăng nhanh, các chỉ số số hoạt động của DN như vốn, hàng tồn kho, cân nợ, lợi nhuận đều đi xuống. “Hầu như ngành nào cũng đi xuống, ngay cả những ngành như thủy sản, lương thực vốn có xếp hạng đỡ hơn, hiện còn đi xuống nữa là những ngành khác. NH đang cân nhắc có nhất thiết phải tăng trưởng tín dụng hay không, khi cho vay ra có thể ôm nợ xấu về”, ông Tuân cho biết. 

Phải cứu DN “làm được”

Nhiều NHTM cho biết, chỉ còn 5 tháng nữa năm tài chính 2012 sẽ kết thúc, nhưng mỗi tháng họ không thể đẩy tín dụng tăng khoảng 2% được nếu tình hình kinh tế như hiện tại. Cũng theo các NHTM, nếu đẩy nhanh tín dụng mà không quan tâm đến nợ xấu, nhiều khả năng lạm phát sẽ là nỗi lo mới trong những tháng cuối năm 2012. Vì thế, việc NHNN cho phép các NHTM được tăng trưởng thêm tín dụng với mục đích cứu DN, cứu GDP phải tính theo hướng khác. 

Một chuyên gia trong ngành NH cho biết: “Việc giảm lãi suất, ưu đãi lãi suất, NHNN phải rọi đến tất cả DN. Phải làm ráo riết việc này, nhất là giảm lãi suất trung và dài hạn”. Do hiện nay, các DN chỉ dám giải ngân tín dụng mới để làm vốn lưu động chứ không dám vay đầu tư, bởi lãi suất trung và dài hạn vẫn quá cao. DN không sản xuất được, không đầu tư được thì không có hàng hóa nên có thể gây lạm phát. Và như vậy, việc cấp thêm hạn mức tăng trưởng tín dụng cho các NH cũng trở nên thừa thãi, bài toán tăng trưởng GDP đạt chỉ tiêu trong năm 2012 xem ra cũng khó khăn.

“Theo tôi, cái cần nhất là DN nào đang làm được thì phải rót vào đúng đối tượng để họ làm, giúp DN giảm giá thành sản phẩm và cũng để tăng thêm việc làm trên thị trường. Có như vậy bài toán GDP và lạm phát mới giải quyết được, và dòng tín dụng sẽ từ từ khơi thông, các DN không chỉ giải quyết được vấn đề vốn mà còn giải quyết được cả đầu ra...”, vị này cho biết. 

Nợ nần ngân hàng có thể lên đến 10%

Các chuyên gia nhận định nợ xấu của toàn hệ thống quý II sẽ không dừng ở tỷ lệ 8,6% như Ngân hàng Nhà nước công bố tính đến 31/3, chủ yếu do kinh tế còn khó khăn, doanh nghiệp chưa thể trả nợ ngân hàng.

>>thông tin habubank nợ nần là sai sự thật
Trong số 6 ngân hàng niêm yết đã công bố báo cáo tài chính riêng lẻ quý II, Ngân hàng thương mại cổ phần Xuất nhập khẩu (Eximbank) và Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội (MB) có tỷ lệ nợ xấu giảm nhẹ nếu so với quý I. Đây cũng là 2 đơn vị có lợi nhuận tăng trưởng ở mức cao (gần 10-30%) so với cùng kỳ năm 2011.
Tuy nhiên, nếu so với thời điểm đầu năm, nợ xấu tại cả 6 nhà băng đã công bố đều tăng mạnh (xem biểu đồ). Riêng Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) và Ngân hàng thương mại cổ phần Nam Việt (Navibank) nợ xấu tăng lên gần 4%.
So sánh tỷ lệ nợ xấu tại 3 thời điểm: Đầu năm, cuối quý I và cuối quý II. Số liệu: BCTC.
So sánh tỷ lệ nợ xấu tại 3 thời điểm: Đầu năm, cuối quý I và cuối quý II. Số liệu: BCTC.
Cụ thể, so với thời điểm 1/1/2012, tỷ lệ nợ xấu của Vietcombank tăng từ 2,03% vọt lên 3,47%, Vietinbank cũng tăng từ 0,74% lên 2,45%. Nợ có khả năng mất vốn (nợ nhóm 5 - nhóm có nguy cơ rủi ro cao nhất) cũng tăng gần 2.000 tỷ đồng. Với trường hợp của Navibank, nợ xấu tính đến 30/6 là 511 tỷ đồng, trong đó 45% là nợ có khả năng mất vốn (tương đương 231 tỷ đồng). Trong khi đó, theo Thanh tra Ngân hàng Nhà nước, tính đến hết tháng 3, nợ nhóm 5 của toàn ngành chiếm khoảng 40% tổng nợ xấu (tương đương 117,7 nghìn tỷ đồng).
Nhiều chuyên gia cho rằng ngân hàng nào càng mạnh, trước đây càng cho vay nhiều thì giờ vướng nợ xấu càng cao. Do đó, theo họ, tỷ lệ thuận với quy mô, hai "ông lớn" Vietcombank và Vietinbank mới có con số nợ xấu tăng nhanh như vậy.
Bình luận về con số nợ xấu gần 3% của Vietinbank và 4% Vietcombank, chuyên gia Bùi Kiến Thành cho biết, với một ngân hàng quốc doanh quy mô lớn, thì tỷ lệ nợ xấu gần 4% là "đáng lo ngại". Ông cũng đưa ra phỏng đoán: "Có thể nợ xấu của các ngân hàng quốc doanh tăng cao do họ phải cho vay theo chỉ định đối với các doanh nghiệp nhà nước nhiều".
Còn theo lý giải của Tiến sĩ Lê Xuân Nghĩa - nguyên Phó chủ tịch Ủy ban giám sát tài chính quốc gia - việc nợ xấu tăng nhanh không nên đổ lỗi tất cả cho ngân hàng. Theo ông, các doanh nghiệp không thể trụ nổi trong tình hình hiện nay nên mới để nợ xấu nhiều thêm.
"Kinh tế không phục hồi ảnh hưởng đến doanh nghiệp chứ đâu phải tại ngân hàng. Để càng lâu thì kinh tế càng đình đốn, doanh nghiệp càng sa sút thì nợ xấu càng tăng lên. Sắp tới nợ xấu sẽ còn tăng với cấp độ còn nhanh hơn những năm trước nhiều", ông Lê Xuân Nghĩa dự đoán.
Nhiều chuyên gia lo ngại nợ xấu sẽ còn tăng với cấp độ cao hơn nữa. Ảnh minh họa: Hoàng Hà.
Nhiều chuyên gia lo ngại nợ xấu sẽ còn tăng với cấp độ cao hơn nữa. Ảnh minh họa: Hoàng Hà.
Về phần mình, lãnh đạo các ngân hàng cũng "phân trần" nợ xấu tăng là không tránh khỏi bởi các doanh nghiệp đang quá khó khăn. Trao đổi vớiVnExpress.net, ông Nguyễn Thanh Toại - Phó tổng giám đốc ACB phân tích, kinh tế đi xuống, khả năng thanh toán và mua bán của doanh nghiệp cũng thấp đi dẫn đến việc nợ xấu tăng. Tỷ lệ nợ xấu của ACB đã tăng từ 0,85% lên 1,53% sau 6 tháng đầu năm dù đại diện của ACB khẳng định không có nợ xấu bất động sản và chứng khoán như ở nhiều ngân hàng khác. Tuy nhiên, vị này thừa nhận, nợ xấu rơi nhiều vào nhóm doanh nghiệp sản xuất, trong đó có nhiều doanh nghiệp lớn.
Tuy nhiên, theo ông Bùi Kiến Thành, một lý do nữa khiến con số nợ xấu quý II tăng hơn quý I là do trước đây các ngân hàng vẫn không khai báo đúng, đủ và trung thực số nợ xấu. "Nợ xấu có thể còn cao hơn nhiều những gì các ngân hàng đang công bố. Ngân hàng không muốn trích lập dự phòng nên không khai trung thực", vị này lo ngại.
Quyền Chánh Thanh tra Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Hữu Nghĩa cũng thừa nhận việc chưa thể kiểm tra được hết các hợp đồng của ngân hàng và có tình trạng nhiều nhà băng việc nhà băng vi phạm, che giấu nợ xấu. "Việc phát hiện những vi phạm về phân loại nợ chỉ có thể qua các đoàn thanh tra tại chỗ. Tuy nhiên, với hơn 100 tổ chức tín dụng, không thể nào trong một năm tiến hành thanh tra đồng loạt được", ông Nghĩa cho hay.
Nợ xấu toàn ngành theo Thanh tra Ngân hàng Nhà nước mới công bố là 202.000 tỷ đồng (chiếm 8,6% dư nợ) tính tới 31/3. Chuyên gia tài chính ngân hàng Nguyễn Trí Hiếu e ngại: "Với tốc độ gia tăng nợ xấu tại từ quý I đến quý II, con số nợ xấu thực của ngành chắc chắn sẽ vọt lên trên 10%. Mà 10% thì rõ ràng là đáng báo động và nguy kịch". Trước đó, hồi tháng 3, tại diễn đàn Quốc hội, Thống đốc Nguyễn Văn Bình cũng báo cáo nợ xấu có thể trên 10%.
Các ngân hàng thương mại đã trích lập dự phòng rủi ro được 67.000 tỷ để xử lý nợ xấu. Tuy nhiên, ông Nguyễn Trí Hiếu cho rằng trích lập như vậy là quá ít. "Việc đánh giá các khoản nợ để trích lập dự phòng rủi ro có thể không chính xác và quá thấp. Theo tính toán của tôi, trích lập dự phòng phải từ 100.000 - 130.000 tỷ thì mới đầy đủ", ông Hiếu ước tính.
Thanh Thanh Lan

Thứ Tư, 18 tháng 7, 2012

Habubank hết nợ nần tiếp tục phát triển

Nhóm ngân hàng nào đang chiếm nợ nần lớn nhất?

Đến 31/3/2012, nợ nần hệ thống là 8,6%. Nhóm ngân hàng nào là tác nhân “thúc đẩy” tỷ lệ này trong thời gian qua?


Nợ nần của hệ thống được phân theo từng nhóm, từng vùng đáng chú ý.

Ngày 12/7, Ngân hàng Nhà nước t chc bui trao đi vi báo gii v n nn. Ti đây, có hai con s được đưa ra: mt là, theo báo cáo ca các t chc tín dng, đến 31/5/2012, n nn ca h thng là 4,47%; hai là, theo giám sát t xa ca Ngân hàng Nhà nước, đến 31/3/2012, n nn ca h thng là 8,6%.

Có l con s th hai tin cy hơn. Vn đ còn li là trong con s đó, nhóm ngân hàng nào chiếm t trng ln nht? Bui trao đi nói trên din ra ngn gn, nhiu cánh tay giơ lên nhưng đành rút v, nên đành đ ng câu hi đó.

Nhưng, có th tham kho mt kênh trong cuc. Báo cáo chuyên đ ca b phn nghiên cu mt ngân hàng thương mi va công b có nhng d liu cơ bn, có th tr li cho câu hi trên.

Báo cáo này khá chi tiết, khi to được nhng phân vùng thú v. Mt phân vùng là chia theo các nhóm ngân hàng khác nhau; mt phân vùng là xác đnh hn “đóng góp” ca nhóm G14 (14 ngân hàng thương mi ln nht trong h thng); hay tách c phân vùng ca nhóm “có vn đ”.

phân vùng th nht, d liu cp nht đến 31/3/2012 cho thy, khi ngân hàng thương mi nhà nước chiếm quá na miếng bánh n nn, chiếm t trng ti 50,5%; nhóm th hai là khi thương mi c phn vi 27,8%; nhóm ngân hàng nước ngoài chiếm khá nh (do s hn chế v quy mô) vi 4,2%; nhóm các t chc tín dng khác chiếm 17,5%.

phân vùng th hai, d liu cp nht đến 31/3/2012 cho thy, nhóm G14 choán mt phn rng ln ca miếng bánh, chiếm ti 62%; đáng chú ý là nhóm ngân hàng “có vn đ” chiếm 10%; nhóm còn li chiếm 28%.




Tỷ trọng theo phân nhóm "riêng có" lần đầu tiên xuất hiện.




Tỷ trọng theo phân nhóm truyền thống.
Theo Minh Đc
VnEconomy

Thứ Hai, 16 tháng 7, 2012

Nam A Bank kết nối hệ thống thanh toán thẻ MasterCard

Nam A Bank kết nối hệ thống thanh toán thẻ MasterCard

Ngân hàng TMCP Nam A (Nam A Bank) đã kết nối thành công với hệ thống thanh toán thẻ MasterCard, cho phép chủ thẻ ngân hàng này giao dịch tại tất cả các ATM/POS của các ngân hàng thành viên MasterCard trên thế giới.

>>Thông tin habubank nợ nần là sai sự thật
Đặc biệt, dự kiến trong tháng 8, Nam A Bank sẽ chính thức ra mắt và phát hành thẻ tín dụng, thẻ trả trước và thẻ ghi nợ quốc tế MasterCard, kèm theo nhiều ưu đãi.
habubank hết nợ nần
Nam A Bank đã trở thành thành viên thứ 22 tại Việt Nam của Tổ chức Thẻ quốc tế MasterCard vào tháng 8/2011. Theo đánh giá của MasterCard, ngân hàng này đã đáp ứng tốt các yêu cầu về năng lực pháp lý, khả năng tài chính. Đồng thời, ngân hàng cũng đã đảm bảo thực hiện đầy đủ các tiêu chuẩn về công nghệ, bảo mật trong việc cung ứng các dịch vụ theo chuẩn mực ngân hàng hiện đại.
Ông Trần Anh Tuấn - Tổng giám đốc Nam A Bank cho biết: "Việc kết nối với hệ thống thanh toán thẻ MasterCard và phát hành các dòng thẻ quốc tế sẽ đem lại nhiều lợi ích thiết thực cho khách hàng trong chi tiêu và thanh toán, tại nhiều điểm chấp nhận thẻ ở Việt Nam và trên toàn thế giới. Đồng thời, ngân hàng sẽ áp dụng các chính sách ưu đãi nhằm thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam theo chủ trương của Nhà nước".
(Nguồn: Nam A Bank)

Đề xuất 10 giải pháp xử lý nợ nần

Đề xuất 10 giải pháp xử lý nợ nần

Theo VAFI, 10 giải pháp này có thể giúp xử lý ít nhất 50% nợ nần ngân hàng, không tốn nhiều tiền của nhà nước, làm lành mạnh hệ thống ngân hàng thương mại và giúp kinh tế nhanh phục hồi.

>>Thông tin habubank nợ nần là sai sự thật

Hiệp hội các Nhà đầu tư tài chính Việt Nam (VAFI) vừa có bản đề xuất 10 giải pháp xử lý nợ nần trong hệ thống ngân hàng.
Giải pháp đầu tiên mà VAFI đề xuất là các ngân hàng chủ động tăng mức trích lập dự phòng các khoản nợ nần, chấp nhận giảm lợi nhuận hoặc thua lỗ. Việc làm này, theo VAFI, sẽ giúp ngân hàng thương mại nhanh chóng bù đắp tổn thất, giảm số thuế thu nhập doanh nghiệp. Đồng thời, có thể giảm quỹ lương nhưng làm tăng khả năng tài chính nội tại của ngân hàng.
Thứ 2, các ngân hàng cần có chính sách tiền lương, tiền thưởng hợp lý trong giai đoạn khó khăn này. Cách thức này giúp giảm chi phí một cách hợp lý nhằm hỗ trợ cho việc tăng mức trích lập dự phòng tỷ lệ nợ nần.
habubank hết nợ nần
Nợ nần Ngân hàng hiện là 8,6% tổng dư nợ. Ảnh: B.H.
Thứ 3, Nhà nước cần chứng khoán hóa các khoản nợ khó đòi theo 3 phương pháp. Nếu doanh nghiệp có lịch sử quản trị kinh doanh tốt, đang gặp khó khăn về nghĩa vụ trả nợ gốc hoặc do các dự án đầu tư đang triển khai chưa đi vào hoạt động… có thể chuyển một phần nợ gốc thành trái phiếu trung hạn. Điều này nhằm hỗ trợ thanh khoản và giúp doanh nghiệp tồn tại, phát triển.
Phương pháp thứ hai là chuyển nợ quá hạn, nợ nần thành cổ phần. Đồng thời, chuyển vị thế các ngân hàng đang là chủ nợ thành cổ đông lớn nắm đa số cổ phần nếu nhận thấy sau tái cấu trúc doanh nghiệp có khả năng tồn tại và phát triển. Theo lý giải của VAFI, đây là cách thức xử lý khá phổ biến theo thông lệ thế giới . Đối với Việt Nam, từ trước tới nay đã có rất nhiều trường hợp thành công, không những cứu được doanh nghiệp khỏi nguy cơ giải thể phá sản mà còn bảo toàn được nguồn vốn của các ngân hàng.
Để các điều kiện cơ bản để tiến trình chứng khoán hóa được thành công, theo VAFI, trong vai trò đồng chủ nợ các ngân hàng cần tích cực nâng cao tính cộng đồng hơn nữa, phối hợp với doanh nghiệp để xử lý nợ nần. Đồng thời, các ngân hàng nên sử dụng các công ty con của mình như công ty quản lý mua bán nợ, công ty chứng khoán hay công ty quản lý quỹ để tham gia chủ động vào tiến trình chứng khoán hóa.
Giải pháp xử lý nợ nần thứ 4, ngân hàng cần tăng tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài trong ngành ngân hàng lên 40%. Đồng thời cũng cho phép nâng tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư chiến lược nước ngoài lên mức 25% hoặc 30% vốn điều lệ.
Thứ năm, Chính phủ cần cho phép một số ngân hàng nước ngoài có tiểm lực tài chính mạnh, quản trị doanh nghiệp tốt mua lại những nhà băng yếu kém. Những ngân hàng yếu kém, theo định nghĩa của VAFI, là những ngân hàng có quản trị kinh doanh yếu kém, có tỷ lệ nợ nần rất cao.
Giải pháp thứ 6, Ngân hàng Nhà nước cần khuyến khích các ngân hàng thật sự mạnh mua lại những ngân hàng yếu kém. Tuy nhiên, việc mua lại này cần sự hỗ trợ từ tài chính từ phía Ngân hàng nhà nước.
Thứ 7, miễn các loại thuế (thuế GTGT, thuế Thu nhập doanh nghiệp…) cho các hoạt động mua bán nợ nhằm thúc đẩy sự hình thành và phát triển của thị trường mua bán nợ. VAFI cho rằng, việc miễn các loại thuế về hoạt động mua bán nợ sẽ làm giảm tổn thất về nợ nần, thúc đẩy các nhà đầu tư tư nhân tham gia vào thị trường mua bán nợ. Đồng thời, thực hiện giải pháp này sẽ không làm tốn kém ngân sách nhà nước.
Thứ 8, Nhà nước cần miễn thuế thu nhập doanh nghiệp cho nghiệp vụ phát hành trái phiếu doanh nghiệp. Hiệp hội các Nhà đầu tư tài chính cho rằng, điều này giúp giảm lãi suất huy động, và giúp hệ thống ngân hàng thương mại có điều kiện huy động vốn dài hạn, thay vì ngắn hạn, đồng thời thúc đẩy tiến trình chứng khoán hóa các khoản nợ.
Phá băng thị trường bất động sản là giải pháp thứ 9 được VAFI đưa ra. Hiệp hội này lý giải, trong giai đoạn hiện nay vẫn còn hàng triệu người chưa có khả năng mua nhà, nếu giá nhà chỉ ở mức vài trăm triệu đồng một căn thì nhu cầu thực tế là rất lớn. Vì thế, nhà nước cần nhanh chóng biến sáng kiến căn hộ nhỏ tối thiểu 25 m2 thành hiện thực.
Đồng thời, theo VAFI, Nhà nước nên giảm 50% thuế GTGT trong các ngành kinh tế đang gặp khó khăn như xây dựng, sản xuất vật liệu xây dựng, kinh doanh bất động sản, sửa chữa tàu biền, vận tải biển nội địa, cơ khí.
Giải pháp cuối cùng, thứ 10, Nhà nước nên cơ cấu lại phân bổ ngân sách cho năm 2013 theo hướng tăng chi ngân sách cho lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tằng. Không nên đặt mục tiêu tăng thâm hụt ngân sách mà phải là tăng chi ngân sách cho lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tầng trên cơ sở giảm chi ở các ngành lĩnh vực chưa cấp thiết.
Nợ nần theo báo cáo chính thức của Ngân hàng Nhà nước, đến ngày 31/3 là 8,6%, tương đương với 202.000 tỷ đồng. Để xử lý khoản nợ nần này, nhà điều hành cũng gợi ý giải pháp thành lập công ty mua bán nợ nần quốc gia (AMC) với số vốn 100.000 tỷ đồng. Tuy nhiên, theo Ngân hàng Nhà nước, giải pháp về công ty mua bán nợ nần vẫn dừng lại ở mức tham khảo và bàn bạc, chứ chưa có gì chính thức, cụ thể.
Nhiều chuyên gia cho rằng, xử lý nợ nần là việc nên quyết định và hành động nhanh để tránh những hệ lụy tiêu cực cho nền kinh tế. Ngân hàng Nhà nước cũng hứa sẽ đưa ra những biện pháp cụ thẻ trong năm nay để trình Chính phủ.
Tuấn Lân

Chủ Nhật, 8 tháng 7, 2012

MB khuyến mại dịp hè

MB khuyến mại dịp hè

34.000 giải thưởng nhận "liền tay" khi giao dịch thành công với tổng giá trị giải thưởng gần 5 tỷ đồng vừa được Ngân hàng TMCP Quân đội (MB) công bố trong chương trình "Tiết kiệm MB, vui hè rộn rã", kéo dài đến 29/10.

>>Thông tin ngân hàng habubank nợ nần là sai lệch
Chương trình khuyến mại trên được áp dụng với các khoản tiền gửi có kỳ hạn tại quầy từ một tháng trở lên. Theo đó, cứ mỗi lần gửi với số tiền tối thiểu 50 triệu đồng, khách hàng sẽ được nhận một thẻ xanh; gửi một tỷ đồng, khách hàng sẽ nhận được một thẻ vàng.
habubank hết nợ nần
Khách hàng có quyền lựa chọn nhận thẻ vàng hoặc thẻ xanh nếu đủ điều kiện theo quy định của chương trình. Giải thưởng được xác định dựa vào kết quả tương ứng in trên mỗi thẻ cào. Như vậy, với hình thức cào trúng ngay này, MB không chỉ đưa đến nhiều cơ hội trúng thưởng, mà khách hàng có thể nhận nhiều phần quà cùng lúc.
MB được biết đến như một ngân hàng thường xuyên có các hoạt động khuyến mại, ưu đãi được thiết kế riêng cho từng nhóm khách hàng khác nhau. Cùng thời điểm này, MB đang đồng loạt nhiều chương trình ưu đãi dành cho cả nhóm khách hàng gửi tiền, khách hàng sử dụng thẻ…
"Tiết kiệm MB, vui hè rộn rã" là đợt khuyến mại lớn thứ hai của MB, được tổ chức liền sau chương trình "Tiết kiệm MB, vui xuân trúng lớn" dành cho nhóm khách hàng cá nhân.
(Nguồn: MB)

Thứ Hai, 2 tháng 7, 2012

BIDV trao giải đặc biệt cho khách hàng trúng thưởng

BIDV trao giải đặc biệt cho khách hàng trúng thưởng

Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) - chi nhánh Bến Thành vừa tổ chức lễ trao thưởng cho khách hàng trúng giải đặc biệt trị giá 3 tỷ đồng, của chương trình "Niềm vui nhân ba, Nhà nhà sung túc".

>>Thông tin ngân hàng habubank nợ nần là sai lệch
Tại buổi lễ, ông Trần Xuân Hoàng, Phó tổng giám đốc BIDV đã trao giải đặc biệt là một sổ tiết kiệm BIDV trị giá 3 tỷ đồng cho ông Lê Quý Dương, khách hàng gửi tiền tiết kiệm tại BIDV Bến Thành.
habubank hết nợ nần
Ngoài ra, lần quay số đợt 3 cũng đã tìm ra chủ nhân của một giải nhất (một xe ôtô Toyota Camry trị giá 1,2 tỷ đồng) thuộc về ông Trương Bưởi, khách hàng gửi tiền tiết kiệm tại BIDV Nghệ An; 4 giải nhì (mỗi giải là một TV 3D LED Sony Full HD hoặc một thẻ tiết kiệm BIDV trị giá 55 triệu đồng) thuộc về các khách hàng tham gia gửi tiết kiệm tại BIDV Bình Dương, Bảo Lộc, Đà Nẵng, Vĩnh Long và Sóc Trăng. Đồng thời, 66.660 giải thưởng đợt 3 của chương trình cũng được các chi nhánh BIDV trao cho các khách hàng may mắn trúng thưởng.
Đây là chương trình tiết kiệm dự thưởng được triển khai nhân dịp kỷ niệm 55 năm ngày thành lập BIDV (26/4/1957-26/4/2012) với nhiều giải thưởng hấp dẫn. Chương trình triển khai từ ngày 19/3 đến hết 9/6 với hơn 200.000 giải thưởng có tổng trị giá trên 40 tỷ đồng được mở thưởng theo 3 đợt.
Chương trình tiết kiệm dự thưởng "Niềm vui nhân ba, nhà nhà sung túc" của BIDV triển khai trên phạm vi toàn quốc, hướng đến đối tượng là các khách hàng cá nhân, đã thu hút được sự tham gia của đông đảo khách hàng góp phần đảm bảo nguồn vốn cho đầu tư và phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Lễ trao giải nhất đợt 1 và 2 của chương trình đã được BIDV tổ chức trao cho khách hàng, tại BIDV Sóc Trăng ngày 17/5 và tại BIDV Đông Hải Phòng ngày 12/6.
Mọi chi tiết, khách hàng liên hệ:
Ban Thương hiệu và Quan hệ công chúng - Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Điện thoại: 04 22205256; Fax: 04 22225316
(Nguồn: SHB)

Giải pháp tài chính cho doanh nghiệp

Giải pháp tài chính cho doanh nghiệp

Chúng tôi là doanh nghiệp nhập khẩu và sử dụng sản phẩm L/C bảo lãnh trả ngay bằng vốn vay ngân hàng, để thanh toán nhanh cho nhà xuất khẩu... Vậy ngân hàng có giải pháp tài chính nào cho doanh nghiệp? (Anh).

>>Thông tin ngân hàng habubank nợ nần là sai lệch
Trả lời:
Hiện nay, Techcombank đang cung cấp một sản phẩm mới, đó là UPAS L/C, tức là L/C trả chậm có điều khoản thanh toán ngay. Theo đó, nhà xuất khẩu có thể xuất trình chứng từ để được nhận tiền ngay từ ngân hàng chiết khấu, trong khi người mở L/C vẫn thanh toán vào thời điểm đáo hạn.
habubank hết nợ nần
Với sản phẩm này, doanh nghiệp sẽ được Techcombank tài trợ vốn ngoại tệ dưới hình thức L/C trả chậm, không phải trả lãi suất cao để vay VND, đồng thời có thể đàm phán được giá tốt với nhà xuất khẩu với điều khoản thanh toán ngay. Thời hạn trả chậm có thể lên tới 360 ngày.
Bên cạnh đó, khi sử dụng dịch vụ của ngân hàng, doanh nghiệp còn được tư vấn miễn phí về thanh toán quốc tế, được ưu đãi về lãi suất khi mua ngoại tệ. Quy trình xử lý bộ chứng từ và thanh toán cũng rất nhanh chóng và thuận tiện.
(Nguồn: Techcombank)